Diễn biến Trận_Di_Lăng

Tôn Quyền hàng Tào, trở thành Ngô Vương

Khi đến huyện Giang châu, Lưu Bị lệnh cho tướng Triệu Vân (từng can gián mình) đóng quân ở lại làm tiếp viện, cho Ngô Ban làm tiên phong, dẫn quân ra Tam Hiệp, tiến vào Kinh châu.

Tôn Quyền thấy Lưu Bị tiến vào Kinh châu, vội sai Thái thú Nam quận là Gia Cát Cẩn đi giảng hòa. Gia Cát Cẩn biết Lưu Bị đang rất căm giận Tôn Quyền nên lấy danh nghĩa cá nhân viết thư phân tích với ý tứ như Triệu Vân (xem Tào Phi làm đối thủ chính vì nợ nước với nhà Hán).

Sau khi Lỗ Túc mất, chỉ còn Gia Cát Cẩn là người bên Đông Ngô từng có quan hệ với Lưu Bị. Vì vậy bức thư của Gia Cát Cẩn là cơ hội cuối cùng cho hai bên có cơ hội thu xếp điều đình với nhau.

Tuy nhiên, Lưu Bị không chấp nhận lời đề nghị của Gia Cát Cẩn, thúc quân tiếp tục đông tiến. Vì vậy chiến tranh giữa hai bên chính thức nổ ra.

Tam Quốc diễn nghĩa kể rằng Tôn Quyền theo kế của Bộ Trắc, bắt thủ phạm giết Trương Phi là Phạm Cương, Trương Đạt giao nộp cho Lưu Bị, trả lại đầu Trương Phi, đồng thời xin trao trả cả Kinh châu và đưa Tôn phu nhân sang Thục; nhưng Lưu Bị vẫn không chấp nhận và quyết giết cho được Tôn Quyền.

Lo sợ nguy cơ từ phía Tào Ngụy ở phía bắc sẽ đến khi giao tranh nổ ra với Lưu Bị, sau khi biết tin Gia Cát Cẩn giảng hòa thất bại, tháng 8 năm 221, Tôn Quyền vội vã sai sứ tới Lạc Dương gặp Tào Phi dâng biểu xưng thần, đồng thời trao trả Vu Cấm từng bị Quan Vũ bắt sống và giam cầm ở Giang Lăng cho Tào Phi. Tào Phi tiếp nhận đề nghị của Tôn Quyền, không nghe theo ý kiến của Lưu Diệp nên tập kích Đông Ngô mà sai Hình Trinh đi sứ Kiến Nghiệp, phong Tôn Quyền làm Ngô vương. Vì vậy Tôn Quyền tạm thời yên tâm mặt bắc để đối phó với Lưu Bị.

Lưu Bị thắng thế

Chiến tranh bùng nổ. Hai tướng tiên phong Ngô Ban, Trần Thức đánh bại đạo quân Ngô của Lý Dị và Lưu A, chiếm huyện Vu và Tỉ Quy.

Lục Tốn xuất quân xung đột với quân Thục một trận nhỏ. Quân Ngô phá tan 5 dinh quân của Lưu Bị, giết được 5 viên tướng Thục[2]. Tuy nhiên đây chỉ là thắng lợi nhỏ, Lục Tốn mang quân đóng ở Di Lăng. Ông thận trọng giữ thế phòng ngự.

Tháng 2 năm 222, sau khi ở Tỉ Quy nửa năm, Lưu Bị dự định tiến quân đến Di Lăng, Hào (Khiêu) Đình. Hoàng Quyền can ông nên đề phòng quân Ngô thông thạo thủy chiến, do đó không nên khinh suất khiêu chiến mà Lưu Bị nên giữ hậu đội phía sau để Hoàng Quyền tự làm tiên phong giao tranh với quân Ngô trước.

Lưu Bị bỏ qua lời đề nghị của Hoàng Quyền, lệnh cho Hoàng Quyền làm Trấn bắc tướng quân, thống lĩnh quân Giang Bắc đề phòng quân Tào Ngụy đánh xuống, còn tự mình đích thân chỉ huy đại quân xuôi dòng tiến đánh Di Lăng.

Lục Tốn thấy quân Thục đang hăng hái, quyết định không đối đầu để tránh thương vong mà hạ lệnh cho tiền quân vứt bỏ Di Lăng, rút về Khiếu Đình (hay Hào Đình) củng cố phòng tuyến, tự mình đặt đại bản doanh ở Di Đạo phía nam Trường Giang cố thủ.

Thấy quân Ngô rút lui, Lưu Bị bèn chiếm đóng Di Lăng, lập doanh trại. Sau đó ông chia quân làm 2 đường, cánh trái do Phùng Tập chỉ huy vượt qua Khiếu Đình của Đông Ngô và bày trận ở phía bắc Di Đạo; cánh phải do Ngô Ban chỉ huy vượt sông ở Khiếu Đình đánh vào trại chính của Đông Ngô ở Di Đạo.

Lục Tốn phòng thủ

Lục Tốn thấy quân chủ lực Thục Hán đóng ở Giang Bắc, cũng tự mình ra đóng trại tại Giang Bắc để đối trận. Nghe tin một cánh quân Thục đánh vào Di Đạo[7], Lục Tốn lệnh cho đạo quân dự bị của Tôn Hoàn phòng thủ nơi này. Ngô Ban tấn công vào trại nhiều ngày, Tôn Hoàn kiên cường phòng thủ, quân Thục không hạ được.

Lưu Bị hạ lệnh cho quân thủy lên bộ hạ trại. Giữa Tỉ Quy và Hào Đình cách nhau 700 dặm, Lưu Bị lập ra liên tiếp mấy chục doanh trại bằng gỗ cây rừng. Lập liên trại với khoảng cách xa như vậy là sai lầm của Lưu Bị, tối kỵ đối với nhà binh[1]. Tào PhiLạc Dương nghe tin này cũng đoán Lưu Bị sẽ thất bại[8].

Thấy Lưu Bị lập doanh trại cách nhau quá xa, quân Thục bị phân tán, các tướng Ngô đề nghị Lục Tốn lập tức phản kích. Lục Tốn không đồng tình, ông cho rằng quân Thục đang hăng hái chưa thể giao tranh, cần đợi khi quân Thục mệt mỏi, giảm nhuệ khí mới có thể đánh thắng.

Hai bên giằng co nhau trong 4 tháng, từ tháng 2 đến tháng 6. Lưu Bị nhiều lần khiêu chiến nhưng quân Ngô không ra. Lưu Bị không có cách gì phá được phòng tuyến của Đông Ngô, chỉ có thể sai Phùng Tập và Trương Nam nắm quân tình ở Di Đạo, còn bản thân mình dẫn quân tới đóng ở giữa Tỷ Quy và Khiếu Đình để chỉ huy toàn cục[9].

Lâu ngày không hạ được Di Đạo và không xuyên qua được phòng tuyến của Lục Tốn, Lưu Bị lo lắng vì quân Thục đã vào sâu đất địch, tuy xuôi dòng sông Trường Giang nhưng phải vận chuyển lương thực đường xa rất tốn kém. Ông bèn hạ lệnh cho Ngô Ban siết chặt vòng vây ở thành Di Đạo, tự mình dẫn quân vượt bờ bắc, chia làm 2 cánh đánh vào hậu phương của Lục Tốn, lại cho 8000 binh sĩ mai phục để chờ quân Ngô ra. Các tướng Ngô thấy quân Thục ít, định ra tấn công ngay, nhưng Lục Tốn cho rằng đó chỉ là kế lừa của Lưu Bị nên một mực giữ thế thủ.

Lưu Bị thấy quân Ngô không trúng kế, đành phải lệnh cho Ngô Ban trở về bờ nam. Các tướng Ngô vẫn coi thường Lục Tốn nhát gan không chịu ra quân, từ khi thấy ông dự liệu chính xác mới tỏ ra khâm phục[10].

Lục Tốn phản công

Giữa mùa hè, cuối tháng 6 năm 222, Lục Tốn thấy quân Thục đã mỏi mệt, bèn ngầm viết thư về Vũ Xương cho Tôn Quyền, khẳng định ông sẽ nắm được thời cơ để đánh bại Lưu Bị.

Tháng 6 nhuận năm 222, vùng Hoa Trung có gió đông nam thổi mạnh, Lục Tốn hạ lệnh cho Chu Nhiên theo đường thủy ngược dòng đánh lên vào đại bản doanh của Lưu Bị ở Khiếu Đình, trên thuyền dùng nhiều cỏ khô và củi lửa để đốt; Hàn Đương và Phan Chương đi đường vòng bên phải đến Trác Hương để chặn đường rút của đội tiên phong Thục Hán; Từ Thịnh và Tống Khiêm đi giải vây cho Di Đạo, sau đó sẽ cùng tiến vào đại trại quân Thục.

Lưu Bị có 40 trại từ Khiếu Đình đến Tỉ Quy trải dài 700 dặm. Nhằm tiết kiệm nhân lực, Lục Tốn chủ trương chỉ tấn công vào 20 trại cách nhau và gây ra hỗn loạn cho quân Thục[11].

Quân do thám của Thục Hán biết quân Ngô chuẩn bị tấn công, liền phi báo cho Lưu Bị. Lưu Bị được tin liền lệnh cho Phùng Tập, Trương Nam sẵn sàng nghênh chiến, và lệnh cho Ngô Ban bỏ đánh Di Đạo mà vượt sông lên phía bắc, chuẩn bị đánh vào quân chủ lực của Đông Ngô. Tuy nhiên, Lục Tốn không điều quân như Lưu Bị dự liệu (đối đầu với Phùng Tập và Trương Nam), mà cho quân đi đường thủy ngược dòng đánh vào đại trại Khiếu Đình[12].

Nửa đêm, quân Ngô áp sát trại Thục và nổi lửa tấn công. Mùa hè nóng nực, trại quân Thục nằm trong rừng nhiều cây nên lửa rất dễ bén. Các doanh trại quân Thục nhanh chóng bốc lửa và quân Thục trở nên hỗn loạn, giẫm đạt lên nhau, bị thương vong khá nhiều.

Tế tửu Trình Kỳ vội hộ tống Chiêu Liệt Đế Lưu Bị chạy về phía tây, và báo cho các trại về hộ giá. Trương Nam và Phùng Tập nghe tin đại trại bị tấn công, phải bỏ mục tiêu đánh quân chủ lực của Lục Tốn mà rút về cứu vua. Ngô Ban để một ít quân ở lại Di Đạo, mang quân vượt sang bờ bắc đánh vào trại quân Ngô nhưng tới nơi không thấy người vội vã lui về cứu đại trại bị cháy.

Từ Thịnh và Tống Khiêm tới giải vây cho Di Đạo, đánh tan số quân Thục còn lại của Ngô Ban. Tôn Hoàn trong thành cũng giáp công, quân Thục bị thiệt hại khá nhiều, chạy tan tác, một số đầu hàng Ngô.

Khắp từ Khiếu Đình tới Di Lăng lửa bốc cháy. Lưu Bị chỉ biết vượt qua Di Lăng để lui về phòng thủ ở Tỉ Quy. Song lúc đó Hàn ĐươngPhan Chương đã chiếm được Trác Hương, cắt đứt đường lui của quân Thục. Từ Thịnh, Tống Khiêm và Tôn Hoàn cũng từ Di Đạo tiến tới trợ chiến. Quân Chu Nhiên theo đường thủy cũng giáp công.

Thục Hán bại binh

Các cánh quân của Trương Nam, Phùng Tập bị thua tan tác, hợp lại với nhau làm một. Ngô Ban cầm quân cảm tử đi trước, đánh vào cánh quân của Hàn Đương, còn Trương Nam hộ tống Lưu Bị, để Phùng Tập đi đoạn hậu, nhằm hướng núi Mã Yên ở phía đông bắc Trác Hương. Ngô Ban tuy phá được vòng vây của Hàn Đương ra ngoài, nhưng quân của Phan Chương lập tức tiến lên thế chỗ, khiến Ngô Ban còn ít quân, muốn cứu Lưu Bị ra nhưng không thực hiện được, đành dẫn tàn quân qua thành Tỉ Quy, chạy về Giang châu báo cho Triệu Vân đến cứu viện[13].

Trương Nam và Phùng Tập giao tranh với quân Ngô, cuối cùng đẩy lui được Phan Chương và Hàn Đương để đưa Lưu Bị ra ngoài. Phùng Tập cùng quân Ngô ác chiến để Lưu Bị có thời gian chạy xa, cuối cùng quân chết gần hết, bị Từ Thịnh giết tại trận.

Trương Nam cùng phó tướng Phó Đồng và Trình Kỳ hộ giá Lưu Bị chạy ra, bị lạc nhau. Trương Nam và Lưu Bị chạy về tới núi Mã Yên. Từ Thịnh, Chu Nhiên và Tống Khiêm truy kích lại gần. Trương Nam để các tướng sĩ đưa Lưu Bị chạy trước, còn mình ở lại đánh chặn và cuối cùng cũng bị tử trận.

Tham mưu Trình Kỳ được Phó Đồng bảo vệ chạy đến bờ sông, nghe tin Lưu Bị chạy về núi Mã Yên, vội cùng nhau tới chi viện. Trình Kỳ đi trước, Phó Đồng đi sau. Quân Thục thế yếu, không đương nổi mấy cánh quân Ngô. Thấy quân sĩ xung quanh đều chết, Trình Kỳ liền tự sát.

Hồ vương Ma Sa Kha[14] ở quận Việt Huề dẫn quân dự bị tới Tỉ Quy, nghe tin quân Thục bại trận liền tới cứu viện, gặp cánh quân Hàn Đương và Phan Chương. Hai tướng Ngô đánh bại và giết chết Ma Sa Kha.

Phó Đồng chạy theo Trình Kỳ tới núi Mã Yên, tới nơi thì Trình Kỳ đã chết. Phó Đồng hộ tống Lưu Bị, Lục Tốn thúc quân tới vây núi Mã Yên. Quân Thục liều chết kháng cự hơn 1 ngày, bị thương vong rất nhiều. Do thành Tỉ Quy đã mất, Lưu Bị và Phó Đồng cố sức phá vây, chỉ còn đường nhắm tới đích là thành Bạch Đế ở Vu huyện.

Quân Thục đột phá vòng vây tiến ra. Lưu Bị sai Phó Đồng chặn hậu, cho chất các xe quân nhu lại, thiêu hủy làm vật cản quân Ngô. Lưu Bị chạy thoát, Phó Đồng đến Tỉ Quy thì bị Từ Thịnh, Chu Nhiên vây đánh. Phó Đồng không chống nổi quân Ngô, cuối cùng bị tử trận.

Lưu Bị chạy qua đường sạn đạo Di Lăng rồi phá đường này để ngăn quân Ngô đuổi theo. Cuối cùng ông chạy thoát về thành Bạch Đế[15] trong tình cảnh rất thê thảm.

Tướng Thục là Hoàng Quyền đóng quân ở bờ bắc, định tiến về cứu viện nhưng bị quân Lục Tốn phong tỏa hết đường đi. Hoàng Quyền không còn đường chạy về theo Lưu Bị, lại không muốn hàng Ngô, bất đắc dĩ phải mang quân sang hàng Tào Phi[16].

Triệu Vân đóng quân ở Giang châu, được tin Ngô Ban báo toàn quân đại bại, vội dẫn quân ra chi viện, nhưng khi chưa tới mặt trận thì Lưu Bị đã rút về thành Bạch Đế, nên chia quân ra đóng ở Vu huyện[17], dựa vào địa hình hiểm trở để phòng thủ.

Tam Quốc diễn nghĩa kể rằng Triệu Vân ra hộ tống Lưu Bị ở núi Mã Yên, đẩy lui quân Đông Ngô, trên thực tế trong suốt chiến dịch Triệu Vân không ra khỏi Vu huyện và không tham chiến.

Nghe tin Lưu Bị lui về thành Bạch Đế, Từ ThịnhPhan Chương đề nghị với Tôn Quyền tấn công sẽ bắt được Lưu Bị. Tuy nhiên Lục Tốn dự đoán Tào Phi sẽ đánh sau lưng Đông Ngô, nên cho toàn quân lui về phòng bị, không nên ham truy đuổi. Tôn Quyền nghe theo, bèn hạ lệnh lui quân.

Tam Quốc diễn nghĩa kể rằng Lục Tốn ham truy kích Lưu Bị tới Vu huyện thì bị lọt vào Bát trận đồ mà Gia Cát Lượng đã giăng sẵn, không sao tìm được đường ra. Cha vợ Khổng Minh là Hoàng Thừa Ngạn đã dẫn Lục Tốn ra khỏi Bát trận đồ. Lục Tốn sợ hãi phải lui binh. Các sử gia lý giải rằng, dù Bát trận đồ là sa bàn đóng quân có thực mà Khổng Minh tạo ra, nhưng Lục Tốn chưa từng tiến quân tới Vu huyện và không bị lọt vào Bát trận đồ này[18].